Chính sách

Chính sách nông nghiệp là tổng hợp các biện pháp kinh tế và phi kinh tế mà nhà nước sử dụng để tác động đến lĩnh vực nông nghiệp, nhằm đạt được các mục tiêu cụ thể như bảo vệ lợi ích nông dân, nâng cao hiệu quả sản xuất, thúc đẩy phát triển nông nghiệp bền vững và giá trị gia tăng cao, giảm tổn thất sau thu hoạch, và xây dựng nông thôn mới. Các chính sách này bao gồm hỗ trợ tài chính, cơ chế tích tụ ruộng đất, phát triển nông nghiệp hữu cơ, và các chương trình mục tiêu quốc gia như Xây dựng Nông thôn mới. 

Mục tiêu của chính sách nông nghiệp

Bảo vệ lợi ích nông dân: Cung cấp các biện pháp hỗ trợ như trợ giá, trợ cấp thu nhập, và khuyến khích ứng dụng công nghệ mới để nâng cao hiệu quả sản xuất. 

Thúc đẩy phát triển bền vững: Hướng tới một nền nông nghiệp thân thiện với môi trường, có khả năng chống chịu và tạo ra giá trị kinh tế cao, giảm thiểu tác động tiêu cực đến môi trường và con người. 

Nâng cao hiệu quả sản xuất: Tích cực hỗ trợ cơ giới hóa, áp dụng công nghệ tiên tiến, và các hình thức tổ chức sản xuất mới nhằm nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm. 

Giảm thiểu tổn thất sau thu hoạch: Thực hiện các chính sách hỗ trợ tài chính để đầu tư vào máy móc, thiết bị, và kho bãi, giúp giảm tỷ lệ thất thoát nông sản sau khi thu hoạch. 

Xây dựng nông thôn mới: Chú trọng phát triển nông nghiệp, nông dân, và nông thôn theo hướng bền vững thông qua các chương trình mục tiêu quốc gia. 

Nghiên cứu

'Mở khóa' giá trị rừng tự nhiên và chuẩn hóa truy xuất chuỗi giá trị lâm sản Việt Nam

Việt Nam hiện có hơn 14,8 triệu ha rừng, trong đó trên 10 triệu ha là rừng tự nhiên, còn lại là rừng trồng, duy trì độ che phủ ổn định trên 42%.

Đây là những dẫn liệu đáng tự hào, khẳng định thành tựu nhiều thập niên bảo vệ và phát triển rừng. Thế nhưng, dòng tiền cho công tác này vẫn hết sức hạn chế. Ngân sách nhà nước trực tiếp dành cho bảo vệ rừng chỉ chiếm khoảng 13% (2.000 tỷ đồng mỗi năm) so với tổng nguồn lực, trong khi nguồn thu đến từ chi trả dịch vụ môi trường rừng (PFES) khoảng 3.000 tỷ đồng mỗi năm cùng những thu nhập ban đầu trong việc chuyển nhượng tín chỉ carbon rừng.

Chính sách đóng cửa rừng tự nhiên từ năm 2011 đã giúp giảm áp lực khai thác, song cũng đồng thời “đóng” lại nguồn thu trực tiếp từ rừng. Nhiều vườn quốc gia, khu bảo tồn vẫn chủ yếu tồn tại nhờ ngân sách, thay vì vận hành theo cơ chế thị trường sinh thái. Rừng được giữ lại về diện tích, nhưng giá trị kinh tế - xã hội chưa thực sự phát huy. 


GS.TS. Phạm Văn Điển, Hiệu trưởng Đại học Lâm nghiệp. Ảnh: TĐ.

Trong khi đó, chuỗi giá trị gỗ và lâm sản tăng trưởng mạnh mẽ. Năm 2024, xuất khẩu năm 2025 đạt khoảng 16,25 tỷ USD. Ngành lâm nghiệp đặt mục tiêu xuất khẩu năm 2025 đạt 18 tỷ USD, và tính đến ngày 15/9/2025, kim ngạch đã đạt 11,3 tỷ USD.

Song đi cùng với đó là thách thức: các thị trường lớn, đặc biệt là Hoa Kỳ và Liên minh châu Âu, ngày càng siết chặt yêu cầu truy xuất nguồn gốc, áp dụng cơ chế “sản phẩm không gây mất rừng” (EUDR) và tiêu chuẩn phát thải thấp. Đó vừa là rào cản, vừa là áp lực đổi mới.

Những “vấn đề” tồn tại từ lâu

Thứ nhất, rừng tự nhiên là tài sản công thuộc sở hữu toàn dân, Nhà nước đại diện quản lý, nhưng phần lớn kinh phí bảo vệ lại đến từ khu vực tư nhân, trong đó có các doanh nghiệp thủy điện, nước sạch chi trả PFES. Bảo vệ rừng là trách nhiệm công, song ngân sách có hạn và nguồn lực tài chính phụ thuộc vào số ít đối tượng, khiến cơ chế chưa bền vững.

Thứ hai, việc đóng cửa rừng tự nhiên đã bảo vệ được diện tích, nhưng cũng gần như giảm thiểu nguồn thu. Ngoài PFES, tín chỉ carbon và du lịch sinh thái ở một số nơi, thì đa số rừng tự nhiên chưa tạo được dòng lợi ích ổn định.

Thứ ba, độ che phủ tăng nhưng chất lượng và sinh kế cộng đồng chưa tương xứng. Nhiều diện tích rừng nghèo kiệt, đa dạng sinh học suy giảm. Người trồng rừng nhỏ lẻ khó tiếp cận thị trường, trong khi chi phí tuân thủ chuẩn quốc tế lại có nguy cơ dồn lên họ.

Thứ tư, xuất khẩu gỗ đã đạt hàng chục tỷ USD nhưng hệ thống dữ liệu và truy xuất vẫn manh mún. Cơ sở dữ liệu tài nguyên rừng quốc gia đang được xây dựng, chưa đáp ứng yêu cầu “truy xuất tận gốc” từ các thị trường quốc tế.

Cuối cùng, Việt Nam đã khởi động thí điểm thị trường carbon (ETS) từ 2025 - 2028, cho phép bù trừ 30% bằng tín chỉ. Tuy nhiên, cơ chế kết nối giữa tài sản carbon của rừng và nghĩa vụ giảm phát thải của ngành công nghiệp vẫn chưa thông suốt. Tài sản carbon rừng vì thế vẫn là “kho báu bị bỏ ngỏ”.


Mạng lưới các vườn quốc gia do Đại học Lâm nghiệp xây dựng cơ sở dữ liệu về Hộ chiếu vườn quốc gia.

Bài toán kép và 4 dòng giá trị lớn

Có thể khái quát thành một bài toán kép: một mặt, bảo vệ rừng là trách nhiệm công nhưng thiếu nguồn lực ổn định; mặt khác, chuỗi gỗ và lâm sản đã vươn ra toàn cầu nhưng chưa có dữ liệu truy xuất đủ mạnh để vượt qua rào cản quốc tế.

Để giải bài toán này, cần nhìn nhận lâm nghiệp theo bốn dòng giá trị lớn.

Thứ nhất, giống - lâm sinh - gỗ lớn, bảo đảm nguồn cung nguyên liệu. Thứ hai, chế biến sâu - thiết kế nội thất - vật liệu xanh, tạo giá trị gia tăng hàng chục tỷ USD mỗi năm. Thứ ba, dịch vụ hệ sinh thái như nước, du lịch, đa dạng sinh học, carbon, là những dòng giá trị mới, nhiều tiềm năng. Cuối cùng là dữ liệu và chứng chỉ, từ truy xuất nguồn gốc đến giám sát (MRV) carbon, là điều kiện tiên quyết để hội nhập quốc tế.

Không phải chuỗi giá trị nào cũng hội tụ đủ bốn dòng, nhưng đây chính là khung định hướng để các chuỗi hiện nay, vốn còn manh mún, được nâng cấp thành đầy đủ, bền vững và toàn diện.

Lời giải từ việc “mở khóa” giá trị

Với giống - lâm sinh - gỗ lớn, trọng tâm là nâng cao năng suất, chất lượng rừng trồng và quản trị rừng tự nhiên. Cần phát triển giống năng suất cao, mở rộng diện tích gỗ lớn có chứng chỉ, thí điểm hợp đồng sinh thái, trong đó ngân sách trả tiền theo kết quả về che phủ, giảm cháy, tăng trữ lượng carbon, thay cơ chế cấp phát bình quân.


Ứng dụng khoa học - công nghệ, chuyển đổi số vào công tác quản lý của ngành lâm nghiệp.

Trong chế biến sâu - thiết kế nội thất - vật liệu xanh, giải pháp là hình thành các cụm công nghiệp chế biến gỗ xanh ở cả ba miền, ứng dụng năng lượng tái tạo và công nghệ tuần hoàn phụ phẩm. Mỗi sản phẩm phải gắn với mã định danh và lịch sử canh tác, vừa đáp ứng EUDR vừa nâng tầm thương hiệu gỗ Việt.

Đối với dịch vụ hệ sinh thái, cần mở rộng PFES theo hướng PFES++. Ngoài thủy điện, nước sạch, nên đưa thêm khu công nghiệp, du lịch, đồ uống vào đối tượng chi trả, với mục tiêu tăng nguồn thu 20 - 30% trong vài năm tới. Đồng thời, triển khai các dự án carbon rừng tự nhiên cấp tỉnh quy mô từ 50.000 ha, kết nối ETS để mở ra nguồn thu mới. Thí điểm tín chỉ đa dạng sinh học tại các vườn quốc gia gắn với du lịch cũng sẽ mở lối để hạ tầng lớn “mua bù trừ” bảo tồn thiên nhiên.

Với dữ liệu và chứng chỉ, cấp bách nhất là chuẩn hóa. Mỗi hecta rừng phải có mã định danh số và hồ sơ truy xuất, coi đây là điều kiện bắt buộc để tham gia mọi thị trường, từ PFES, carbon đến gỗ và du lịch.

Hoàn thiện cơ sở dữ liệu tài nguyên rừng quốc gia, kết nối hệ thống cấp phép - chứng nhận - kiểm định, đồng thời hình thành khung MRV quốc gia với một bộ tiêu chuẩn, một cổng đăng ký và một cơ quan kiểm định, sẽ là nền tảng để Việt Nam hội nhập ETS và các thị trường tín chỉ quốc tế.

Muốn chính sách đúng, trước hết phải mở khóa giá trị của rừng tự nhiên và chuẩn hóa truy xuất chuỗi giá trị lâm sản (nguyên liệu chủ yếu từ rừng trồng và nhập khẩu).

Khi PFES được mở rộng, thị trường carbon được kết nối, tín chỉ đa dạng sinh học được thử nghiệm, du lịch rừng phát triển, dữ liệu được chuẩn hóa và ngân sách được trả theo kết quả, mỗi hecta rừng sẽ không còn chỉ sống nhờ trợ cấp, mà thực sự trở thành một tài sản sinh lợi của quốc gia xanh. Đó là con đường để rừng Việt Nam không chỉ xanh về diện tích, mà còn xanh về kinh tế, bền vững về xã hội và hội nhập vững vàng vào thị trường toàn cầu.

GS.TS. Phạm Văn Điển - Hiệu trưởng Đại học Lâm nghiệp 

Nguồn: nongnghiepmoitruong.vn

Tài nguyên thiên nhiên

Tài nguyên thiên nhiên là những vật chất có sẵn trong tự nhiên mà con người có thể khai thác, chế biến, sử dụng, phục vụ cuộc sống của con người (rừng cây, các động vật, thực vật quý hiếm, các khoáng sản, các nguồn nước, dầu, khí). Tài nguyên môi trường, hay còn gọi là tài nguyên thiên nhiên là một bộ phận thiết yếu của môi trường, có quan hệ chặt chẽ với môi trường. Tài nguyên thiên nhiên không bao gồm: các sản phẩm tái chế, các sản phẩm thuộc phân khúc rác thải, lương thực đã chế biến, các sản phẩm công-nông nghiệp như cá, tôm, nhựa, giấy, gạo, các sản phẩm từ ngành công nghiệp nói chung và ngành thời trang nói riêng.

Các loại tài nguyên thiên nhiên gồm: Tài nguyên tái tạo là tài nguyên có thể tự duy trì hoặc tự bổ sung một cách liên tục khi được quản lý một cách hợp lý. Tuy nhiên, nếu sử dụng không hợp lý, tài nguyên tái tạo có thể bị suy thoái không thể tái tạo được. Ví dụ: tài nguyên nước có thể bị ô nhiễm, tài nguyên đất có thể bị mặn hoá, bạc màu, xói mòn,... Tài nguyên không tái tạo là loại tài nguyên tồn tại hữu hạn, sẽ mất đi hoặc biến đổi sau quá trình sử dụng. Ví dụ như tài nguyên khoáng sản như dầu mỏ, than đá của một mỏ có thể bị cạn kiệt sau khi khai thác. Tài nguyên năng lượng vĩnh cửu là những nguồn năng lượng sạch, khi sử dụng không gây ô nhiễm môi trường và mất đi như năng lượng mặt trời, năng lượng gió, năng lượng sóng biển, năng lượng nhiệt hạch, ...