Trong khuôn khổ Công ước khung của Liên Hợp quốc về Biến đổi khí hậu (UNFCCC), Thỏa thuận Paris về Biến đổi khí hậu (2015) đánh dấu cam kết mạnh mẽ của các quốc gia về cắt giảm khí nhà kính, bảo tồn và tăng cường các bể chứa các-bon, trong đó có các-bon rừng.

Ở Việt Nam trong ba thập kỷ qua, rừng được phục hồi, bảo vệ và phát triển, nhờ đó lâm nghiệp trở thành lĩnh vực có tiềm năng lớn về giảm phát thải. Tại một số địa phương thực hiện thí điểm, kết quả giảm phát thải từ REDD+ đã được đo đạc, tính toán, thẩm định và xác minh thành các tín chỉ giảm phát thải; được trao đổi, chuyển nhượng; các giá trị thu được bổ sung từ giảm phát thải đã góp phần vào việc cải thiện sinh kế cho người dân, cộng đồng dân cư và các đối tượng dễ bị tổn thương, bảo vệ và phát triển rừng. Tuy nhiên cho đến nay, hệ thống pháp luật của Việt Nam chưa có quy định cụ thể về việc trao đổi, chuyển nhượng; các quyền gắn với kết quả giảm phát thải, như: quyền sở hữu, quyền bù trừ kết quả giảm phát thải; quyền sử dụng nguồn thu từ chuyển nhượng kết quả giảm phát thải từ rừng. Đây là khoảng trống pháp lý trong hệ thống pháp luật dẫn đến khó khăn, vướng mắc cho các bên trong thực tiễn triển khai chuyển nhượng kết quả giảm phát thải từ rừng trong phạm vi toàn quốc. Xuất phát từ những vấn đề trên, việc nghiên cứu quyền các-bon rừng là cần thiết. Báo cáo Quyền các-bon rừng ở Việt Nam: Thực tiễn và một số vấn đề lý luận được biên soạn nhằm tập trung vào khía cạnh thông tin này.
